thuyết đa trí tuệ
Giáo sư Howard Gardner, Đại học Harvard đã đưa ra thuyết "Thuyết đa thông minh" (Multiple Intelligences) và nói rằng mỗi trẻ đều có những khả năng đặc biệt cần phải được phát hiện và bồi dưỡng. Khi giáo dục trẻ, cha mẹ cần tìm hiểu về các loại trí thông minh để
Hoạt động. Độ tuổi. Phương pháp. Từ 1999. Brainy Kids Academy dựa trên nền tảng chương trình của Bộ Giáo Dục, kết hợp với triết lý Reggio Emilia và thuyết thông minh đa trí tuệ giúp trẻ em phát triển toàn diện về 5 lĩnh vực phát triển: ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ
Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Thuyết Đa trí tuệ cho rằng, mỗi cá nhân hầu như đều đạt đến một mức độ nào đó ở từng "phạm trù thông minh" khác nhau. Đặc biệt, mức độ này không phải là "hằng số" trong suốt cuộc đời của mỗi người mà có thể sẽ thay đổi (tăng hay giảm) tùy vào sự trau dồi của mỗi cá nhân. GV: Đào Thị Thu Hằng 8
Thuyết đa trí tuệ đã mang lại một cái nhìn nhân bản và cần thiết nhằm kêu gọi nhà trường và giáo viên coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi học sinh: mỗi loại trí tuệ đều quan trọng và mỗi học sinh đều có ít nhiều khả năng theo nhiều khuynh hướng khác nhau.
Trí tuệ cảm xúc (EQ) là phẩm chất quan trọng để thành công trong sự nghiệp và quản lý. Tổng hợp bí quyết giúp bạn phát triển EQ cao hơn. cột mốc quan trọng khác trong nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc là sự ra đời của khái niệm đa trí tuệ (multiple intelligences) vào
Quyền sở hữu trí tuệ là một quyền dân sự được nhà nước ghi nhận và bảo vệ bằng việc quy định cụ thể trong pháp luật. Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và khi có xảy ra hành vi xâm phạm quyền, tùy … Phân tích, chỉ ra những ưu
oradceami1970. Theo thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner, có bao nhiêu loại hình trí tuệ ở con người? Ứng dụng của học thuyết đa trí tuệ trong dạy học hiện nay là như thế nào? Xem ngay bài viết dưới đây để tìm hiểu đầy đủ về học thuyết 9 loại hình trí thông minh của Howard Gardner nhé!Mục lục1. Nội dung thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner Theory of Multiple Intelligences là gì? Khái niệm trí thông minh là gì? Nội dung 9 loại trình trí thông minh trong học thuyết đa trí tuệ của Howard Trí thông minh thị giác – không gian Visual-Spatial Intelligence Trí thông minh ngôn ngữ – lời nói Linguistic-Verbal Intelligence Trí thông minh logic – toán học Logical-Mathematical Intelligence trong lý thuyết đa trí tuệ của Howard Trí thông minh cơ thể – vận động Bodily-Kinesthetic Intelligence Trí thông minh âm nhạc Musical Intelligence Trí thông minh liên các nhân Interpersonal Intelligence Trí thông minh nhận thức bản thân/Nội tâm Intrapersonal Intelligence Trí thông minh về thiên nhiên Naturalistic Intelligence Trí thông minh hiện sinh Existential Intelligence Nhược điểm của thuyết đa trí tuệ Theory of Multiple Intelligences Ưu điểm của thuyết đa trí tuệ Theory of Multiple Intelligences3. Vận dụng thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner trong giáo dục dạy học mầm non hiện Tìm hiểu học sinh tốt Vận dụng học thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner trong mở rộng các hoạt động truyền thống1. Nội dung thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner Theory of Multiple Intelligences là gì? Khái niệm trí thông minh là gì?Khi nghe đến cụm từ “thông minh”, khái niệm IQ có thể ngay lập tức xuất hiện trong đầu bạn. Trí thông minh thường được định nghĩa là tiềm năng trí tuệ của chúng ta, thứ mà chúng ta sinh ra đã có. Và thứ đó có thể đo lường được, khả năng khó thay nhiên, trong những năm gần đầy, các quan điểm khác về trí thông minh đã xuất hiện. Trong đó, khái niệm đa trí tuệ Multiple Intelligences là một lý thuyết được đề xuất bởi nhà tâm lý học Howard Gardner, tốt nghiệp từ đại học Harvard. Gardner cho rằng có 8 trí thông minh khác nhau, bao gồm Trí thông minh thị giác – không gian, Ngôn ngữ – lời nói, Logic – toán học, Cơ thể – vận động, Âm nhạc, Liên cá nhân, Nội tâm và Thiên Nội dung 9 loại trình trí thông minh trong học thuyết đa trí tuệ của Howard GardnerLý thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner cho rằng các quan điểm đo lường tâm lý truyền thống về trí thông minh là quá hạn chế. Ông cũng lần đầu tiên phác thảo về học thuyết của mình trong cuốn sách có tên “Frames of Mind The Theory of Multiple Intelligences” vào năm 1983. Trong đó, ông gợi ý rằng tất cả mọi người đều có các loại “trí thông minh” khác đầu, Howard Gardner đề xuất 8 loại trí thông minh, sau này, ông bổ sung thêm trí thông minh thứ 9 là Trí thông minh hiện sinh Bakić-mirić N, 2010. Theo ông, con người không chỉ có năng lực trí tuệ, mà còn bao gồm trí thông minh về các lĩnh vực khác người có thể đặc biệt nổi trội trong một lĩnh vực cụ thể như âm nhạc nhưng rất có thể họ sở hữu nhiều khả năng khác như thể thao, thiên nhiên,…8 loại hình trí thông minh ban đầu theo lý thuyết đa trí tuệ của Howard Trí thông minh thị giác – không gian Visual-Spatial IntelligenceTheo lý thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner, những người mạnh về trí thông minh thị giác – không gian rất giỏi trong việc hình dung mọi thứ, thường giỏi chỉ đường, chỉ bản đồ, biểu đồ, video và hình ảnh Levine et al, 2012.Điểm mạnh Phán đoán trực quan và không trưngĐọc và viết để tận hưởngGiỏi ghép các câu đố lại với nhauGiải thích hình ảnh, đồ thị và biểu đồ tốtThích vẽ, hội họa và nghệ thuật thị giácNhận biết các hình mẫu dễ dàngLựa chọn nghề nghiệp tiềm năng Nếu giỏi về trí thông minh thị giác – không gian, những lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với bạn là kiến trúc sư, nghệ sĩ, kỹ Trí thông minh ngôn ngữ – lời nói Linguistic-Verbal IntelligenceNhững người có trí thông minh ngôn ngữ – lời nói có khả năng sử dụng từ ngữ tốt, cả khi viết và nói. Theo lý thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner, họ thường rất giỏi trong việc viết truyện, ghi nhớ thông tin và đọc Bakić-mirić N, 2010.Điểm mạnh Từ ngữ, ngôn ngữ và chữ trưngGhi nhớ thông tin viết và nóiThích đọc và viếtTranh luận hoặc đưa ra những bài phát biểu thuyết phụcCó thể giải thích mọi thứ tốtSử dụng tính hài hước khi kể chuyệnLựa chọn nghề nghiệp tiềm năng Nhà văn/nhà báo, Luật sư, Giáo Trí thông minh logic – toán học Logical-Mathematical Intelligence trong lý thuyết đa trí tuệ của Howard GardnerNhững người nổi trội về trí thông minh logic – toán học giỏi lập luận, nhận dạng các mẫu hình và phân tích vấn đề một cách logic. Những cá nhân này có xu hướng suy nghĩ khái niệm về các con số, các mối quan hệ và các mẫu hình Singh et al, 2017.Điểm mạnh Phân tích bài toán và các phép trưngCó kỹ năng giải quyết vấn đề xuất sắcThích suy nghĩ về những ý tưởng trừu tượngThích tiến hành các thí nghiệm khoa họcCó thể giải thích các phép tính phức tạpLựa chọn nghề nghiệp tiềm năng Nhà khoa học, Nhà toán học, Nhà khoa học máy tính, Kỹ sư, Kế toán Trí thông minh cơ thể – vận động Bodily-Kinesthetic IntelligenceTheo học thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner, những người nổi trội về trí thông minh vận động cơ thể được cho là giỏi về các chuyển động cơ thể, thực hiện các hành động và kiểm soát thể chất tốt. Họ cũng có xu hướng phối hợp tay – mắt tuyệt vời và khéo léo Singh et al, 2017.Điểm mạnh Chuyển động vật lý, điều khiển cơ trưngCó khả năng khiêu vũ và thể thaoThích sáng tạo mọi thứ bằng chính đôi tay mìnhCó sự phối hợp thể chất tuyệt vờiGhi nhớ bằng cách làm vận động hơn là nghe và nhìnLựa chọn nghề nghiệp tiềm năng Thợ thủ công, Vũ công, Thợ xây, Bác sĩ phẫu thuật, Nhà điêu khắc, Diễn Trí thông minh âm nhạc Musical IntelligenceNhững người có trí thông minh âm nhạc mạnh mẽ giỏi suy nghĩ về các hình mẫu, nhịp điệu và âm thanh. Theo lý thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner, họ đánh giá cao âm nhạc và thường giỏi sáng tác, biểu diễn âm nhạc Sternberg RJ, 2012.Điểm mạnh Nhịp điệu âm trưngThích ca hát và chơi nhạc cụNhận biết các mẫu hình và giai điệu âm nhạc một cách dễ dàngGhi nhớ các bài hát và giai điệuCó hiểu biết phong phú về cấu trúc âm nhạc, nhịp điệu và nốt nhạcLựa chọn nghề nghiệp tiềm năng Nhạc sĩ, Nhà soạn nhạc, Ca sĩ, Giáo viên dạy nhạc, Nhạc Trí thông minh liên các nhân Interpersonal IntelligenceTheo lý thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner, những người có trí thông minh liên cá nhân rất giỏi trong việc hiểu và tương tác với người khác. Họ có kỹ năng đánh giá cảm xúc, động cơ, mong muốn và ý định của những người xung quanh Sternberg RJ, 2012.Điểm mạnh Sự hiểu biết sâu sắc và tương quan với người trưngGiao tiếp tốt bằng lời nóiCó kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữNhận định các tình huống từ các quan điểm khác nhauTạo các mối quan hệ tích cực với người khácGiải quyết các xung đột trong bối cảnh nhómLựa chọn nghề nghiệp tiềm năng Nhà tâm lý học, Triết gia, Cố vấn, Nhân viên bán hàng, Chính trị gia, Người dẫn chương trình MC. Trí thông minh nhận thức bản thân/Nội tâm Intrapersonal IntelligenceNhững người có trí thông minh nhận thức bản thân/nội tâm rất giỏi trong việc nhận thức được các trạng thái cảm xúc, tình cảm, và động cơ chính của mình. Họ có xu hướng thích tự suy nghĩ và phân tích, bao gồm mơ mộng, khám phá các mối quan hệ với người khác, và đánh giá điểm mạnh cá nhân của bản thân Sternberg RJ, 2012.Điểm mạnh Nội quan và tự phản trưngPhân tích điểm mạnh và điểm yếu của bản thân tốtThích phân tích các lý thuyết và ý tưởngCó khả năng tự nhận thức tuyệt vờiHiểu cơ sở cho động lực và cảm xúc của chính mìnhLựa chọn nghề nghiệp tiềm năng Triết gia, Nhà văn, Nhà lý luận, Nhà khoa Trí thông minh về thiên nhiên Naturalistic IntelligenceTự nhiên/Thiên nhiên học là sự bổ sung gần đây nhất cho lý thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner, và đã vấp phải nhiều phản đối hơn 7 loại hình trí thông minh ban đầu của Gardner, những người nổi trội về loại hình trí thông minh này sẽ hòa hợp hơn với thiên nhiên và thường quan tâm đến việc nuôi dưỡng, khám phá môi trường, và tìm hiểu về các giống loài khác. Họ có nhận thức cao về những thay đổi, thậm chí tinh tế, đối với môi trường của bản thân Bakić-mirić N, 2010.Điểm mạnh Tìm kiếm các mô hình và mối quan hệ với thiên trưngQuan tâm đến các chủ đề như thực vật học, sinh học và động vật họcPhân loại và lập danh mục thông tin dễ dàngThích cắm trại, làm vườn, đi bộ đường dài và khám phá ngoài trờiKhông thích học những chủ đề xa lạ mà không liên quan đến tự nhiênLựa chọn nghề nghiệp tiềm năng Nhà sinh vật học, Nhà bảo tồn, Người làm vườn, Nông Trí thông minh hiện sinh Existential IntelligenceTrí thông minh hiện sinh là loại hình trí thông minh thứ 9 được đề xuất như một phần bổ sung cho lý thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner ban đầu. Ông mô tả trí thông minh hiện sinh là khả năng đi sâu vào những câu hỏi sâu sắc hơn của cuộc sống, của sự tồn tại. Những người có trí thông minh này suy ngẫm về những câu hỏi “lớn” xung quanh các chủ đề như ý nghĩa và động lực của cuộc sống, cách hành động có thể thực hiện các mục tiêu lớn hơn Ian J. McCoog, 2010.Điểm mạnh Khả năng nhìn thấy bức tranh lớn hơn về vấn đề, ý nghĩa cuộc trưngCó tầm nhìn dài hạnXem xét các hành động hiện tại ảnh hưởng đến kết quả trong tương lai như thế nàoQuan tâm đến các câu hỏi về ý nghĩa sự sống và cái chếtQuan tâm mạnh mẽ và quan tâm đến người khácKhả năng nhìn nhận tình huống từ góc nhìn bên ngoàiLựa chọn nghề nghiệp tiềm năng Triết gia, Nhà thần học, Cố vấn mục vụ, Mục Đánh giá ưu nhược điểm của học thuyết đa trí tuệ về 9 loại hình trí thông Nhược điểm của thuyết đa trí tuệ Theory of Multiple IntelligencesNội dung học thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner khá hấp dẫn và trải dài ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng cách tiếp cận này không có công cụ đo lường cụ thể và phù hợp. Chính vì vậy mà học thuyết tâm lý này thiếu sự hỗ trợ về mặt khoa học thực nghiệm. Một số nhà chuyên môn còn cho rằng thuyết đa trí tuệ mơ hồ, mang tính chủ nhà phê bình tâm lý – giáo dục cũng cho rằng định nghĩa về trí thông minh của Gardner là quá rộng, và 8 loại hình trí thông minh đa dạng này chỉ đơn giản là đại diện cho tài năng, đặc điểm tính cách và khả Ưu điểm của thuyết đa trí tuệ Theory of Multiple IntelligencesDù nhận nhiều chỉ trích, lý thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner vẫn được các nhà giáo dục đặc biệt yêu thích. Nhiều giáo viên sử dụng trí tuệ đa dạng vào trong triết lý dạy học của mình và thực hành Cerruti C, 2013.Không có bằng chứng cho thấy việc học theo “trí thông minh” của bạn sẽ tạo ra kết quả giáo dục tốt hơn. Tuy nhiên, bạn có thể thấy rằng, việc tìm hiểu thêm về đa trí tuệ có thể giúp bạn hiểu rõ hơn về điểm mạnh, cũng như sở thích của thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner giúp mỗi chúng ta nhận biết được điểm mạnh của bản Vận dụng thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner trong giáo dục dạy học mầm non hiện Tìm hiểu học sinh tốt hơnCó nhiều công cụ đánh giá đa trí tuệ có sẵn dạng form trực tuyến hoặc in ra để sử dụng trong lớp học. Những bài kiểm tra này có thể cung cấp cái nhìn hấp dẫn về khả năng bẩm sinh của học sinh. Nhờ đó, giúp học sinh suy nghĩ về cách sử dụng điểm mạnh của mình sao cho hữu ích trong tất cả các môn dụ Học sinh có trí thông minh về âm nhạc có thể tự sáng tác một bài hát để học Bảng nguyên tố tuần hoàn nhanh chóng hơn. Trẻ thiên về trí thông minh thị giác có thể vẽ một bức tranh hoặc sơ đồ để ghi nhớ vòng đời của một con Vận dụng học thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner trong mở rộng các hoạt động truyền thốngCác hoạt động truyền thống trong trường học thường tập trung chủ yếu vào trí thông minh ngôn ngữ và logic – toán học. Những bạn có thể vận dụng lý thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner vào trong lớp học như sauNgôn ngữ học Đề nghị học sinh viết một câu chuyện về những gì mình đang học. Nếu trẻ đang học về một quy trình nào đó, hãy yêu cầu trẻ viết sách hướng dẫn hoặc phát biểu về cách để thực hiện quy trình – toán học Ngoài việc giải các bài toán, trí thông minh logic – toán học còn giúp trẻ tập trung vào suy luận logic và giải quyết vấn đề. Học sinh có thể tiến hành khảo sát và vẽ đồ thị hoặc biểu đồ kết quả. Hãy yêu cầu trẻ hoạt động theo cách một nhà khoa học thực hiện ngoài đời thực để sử dụng logic và/hoặc toán học nhằm giải quyết vấn đề hoặc kiểm chứng giả thể – vận động Hãy tạo cơ hội cho học sinh vận động cơ thể như diễn một vở kịch, khiêu vũ,…Bằng cách sử dụng các thao tác trong toán học, hãy yêu cầu trẻ xây dựng mô hình bằng đất sét hoặc tạo ảnh ghép về một khái niệm quan giác – Không gian Hãy để trẻ vẽ sơ đồ, minh họa một dự án nhóm hoặc làm bài thuyết trình nhỏ bằng PowerPoint, khuyến khích sử dụng các ký hiệu hoặc màu sắc để hiểu ý nghĩa những ghi chú của mình thay vì các phương pháp ghi chú truyền nhạc Bạn có thể yêu cầu trẻ sáng tác một bài hát về chủ đề đang học, hoặc tạo mối liên hệ giữa âm thanh/âm nhạc với thông vừa học. Ví dụ như tạo ra 3 bản nhạc đại diện cho chất rắn, lỏng, cá nhân Đây là những học sinh thường xuyên nói chuyện. Hãy tận dụng năng lượng trò chuyện đó thông qua các cuộc thảo luận trong lớp hoặc làm việc nhóm, cho trẻ thuyết trình hoặc sử dụng công nghệ để giúp bản thân tương tác với người khác qua Skype, Zalo,…Nội tâm Bạn có thể giao cho những học sinh này làm bài tập tạo ra mối liên hệ giữa trải nghiệm cá nhân của mình với chủ đề đang học trên lớp qua bài blog, tạp chí hoặc tiểu luận,…Trẻ cũng có thể học các bài tập siêu nhận thức, nghĩa là khuyến khích trẻ suy nghĩ về phong cách và quy trình học tập của riêng nhiên Hãy kết hợp thế giới bên ngoài để thu hút sự chú ý của những học sinh có loại hình trí thông minh này. Các chuyến đi thực tế và học tập dựa trên dự án là ý tưởng tuyệt vời, hoặc bất kì hoạt động nào cho phép trẻ hít thở không khí trong lành và tương tác với động, thực vật đều sẽ hữu thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner rất quan trọng vì nó cho phép chúng ta suy nghĩ về các loại sức mạnh, khả năng tinh thần khác nhau. Việc tìm hiểu thêm về loại hình thông minh mà bạn nổi trội có thể giúp bạn học cách nhận ra sở thích, sở trường của bản thân. Tuy nhiên, đừng sử dụng lý thuyết này như một công cụ dán nhãn bản thân, cũng không nên nhầm lẫn chúng với phong cách học tập, bạn nhé!
Theo Gardner, trí thông minh intelligence được ông quan niệm như sau “là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn hóa” và trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số Việt Nam, Giáo sư Sử học Dương Trung Quốc cùng nhiều nhà nghiên cứu khác cũng đã công nhận sự đúng đắn của lý thuyết này. Đặc biệt đối với nhiều bậc cha mẹ lâu nay có quan niệm sai lệch về trí thông minh của trẻ thì giờ đây cần có sự thay 1983, tiến sĩ Howard Gardner – một nhà tâm lý học nổi tiếng của Đại học Harvard- đã xuất bản một cuốn sách có nhan đề “Frames of Mind” tạm dịch “Cơ cấu của trí tuệ”, trong đó ông công bố các nghiên cứu và lý thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh Theory of Multiple Intelligences .Sau đây là 8 loại trí thông minh mà Gardner đã đề nghị tại thời điểm đóThuyết đa trí tuệ của Howard Gardner1. Trí thông minh logic- toán học Đây là vùng phải làm với logic, trừu tượng, quy nạp, lập luận suy diễn, và những con số. Trong khi người ta thường cho rằng những người có trí thông minh này thường nổi trội trongnhững môn như toán học, cờ vua, lập trình máy tính và các hoạt động trừu tượng hoặc những con số, nơi khả năng toán học ít hơn khả năng suy luận. Đây cũng là vùng nhận dạng mẫu trừu tượng, tư duy khoa học và điều tra, và khả năng để thực hiện các tính toán phức Trí thông minh không gian Đây là vùng phải làm việc với những tầm nhìn và phán đoán không gian. Những người có trí thông minh thị giác-không gian mạnh mẽ thường rất giỏi trong việc hình dung và tinh thần với đối tượng thao tác. Họ có một trí nhớ thị giác mạnh mẽ và thường có khuynh hướng nghệ thuật. Những người có trí thông minh thị giác-không gian cũng thường có một cảm giác rất tốt về phương hướng, ngoài ra họ cũng có thể có sự phối hợp tay và mắt rất tốt, mặc dù điều này thường được xem như là một đặc trưng của vận động cơ Trí thông minh vận động Đây là vùng dành cho những chuyển động cơ thể. Trong vùng này, con người thường thành thạo trong việc hoạt động thể chất như thể thao hay khiêu vũ và thường thích các hoạt động phong trào. Họ có thể thưởng thức diễn xuất hay biểu diễn, và nói chung họ rất giỏi trong việc xây dựng và làm mọi thứ. Họ thường học tốt nhất khi thể chất làm một cái gì đó, chứ không phải đọc hoặc nghe về nó. Những người có trí thông minh vận động cơ thể, mạnh mẽ dường như sử dụng những gì có thể được gọi là bộ nhớ cơ bắp; tức là, họ nhớ những điều thông qua cơ thể của họ, chứ không phải bằng lời nói bộ nhớ bằng lời nói hoặc hình ảnh bộ nhớ trực quan. Những vận động đòi hỏi các kỹ năng và sự khéo léo, độ dẻo dai, cũng như cần thiết cho khiêu vũ, thể thao, phẫu thuật, làm thủ công, vv… Nghề nghiệp mà phù hợp với những người có trí thông minh này bao gồm các vận động viên, vũ công, diễn viên, diễn viên hài, nhà xây dựng, và thợ thủ công4. Trí thông minh tương tác giao tiếp Đây là khu vực phải làm việc với sự tương tác giữa người với người. Những người trong nhóm này thường hướng ngoại và có đặc điểm là luôn nhạy cảm với những tâm trạng, cảm xúc, tính khí, động cơ của người khác, và họ có khả năng hợp tác, làm việc với người khác như một phần của nhóm. Họ giao tiếp tốt và dễ dàng đồng cảm với người khác, và họ có thể là những người lãnh đạo hoặc những người đi theo. Họ thường học tốt nhất bằng cách làm việc với người khác và thường thích thú với các cuộc thảo luận và tranh luận5. Trí thông minh nội tâm Đây là vùng phải làm việc hướng nội và phản chiếu năng lực của chính chủ thể. Những người có trí tuệ mạnh về điều này thường là người hướng nội và thích làm việc một mình. Họ có ý thức tự giác cao và có khả năng hiểu được cảm xúc, mục tiêu và động cơ của bản thân. Họ thường ham thích theo đuổi những tư tưởng cơ bản cũng như triết học vậy. Họ học tốt nhất khi được phép tập trung vào chủ đề của mình. Thường họ có một sự cầu toàn cao khi gắn với trí tuệ Trí thông minh thiên nhiên Bao gồm cả việc hiểu biết về thế giới tự nhiên như động thực vật, chú ý những đặc điểm của từng loài và phân loại chúng. Nói chung, nó bao gồm cả việc quan sát sâu sắc về môi trường tự nhiên xung quanh và có khả năng để phân loại những thứ khác nhau tốt. Nó có thể thực hiện bằng cách khám phá thiên nhiên, làm cho bộ sưu tập cho các loài, nghiên cứu chúng, và nhóm chúng lại với nhau. Có kỹ năng sắc bén về cảm giác – tầm nhìn, âm thanh, mùi, vị và xúc giác. Quan sát một cách sắc bén về sự thay đổi của tự nhiên và các mối liên hệ giữa các Trí thông minh ngôn ngữ Trí thông minh bằng lời nói và ngôn ngữ thể hiện bằng những từ ngữ, cách nói hoặc viết. Họ thường giỏi đọc, viết, kể chuyện, và ghi nhớ từ và ngày tháng. Họ có xu hướng học tốt nhất bằng cách đọc, ghi chú, lắng nghe bài giảng, và qua thảo luận và tranh luận. Họ cũng thường xuyên xử dụng kỹ năng giải thích, giảng dạy và các bài diễn văn hay nói có sức thuyết phục. Những người có trí thông minh bằng lời nói-ngôn ngữ học ngoại ngữ một cách dễ dàng vì họ có trí nhớ từ cao và thu hồi và khả năng hiểu và vận dụng cú pháp và cấu trúc …8. Trí thông minh âm nhạc Đây là vùng trí tuệ phải làm với các giai điệu, âm nhạc và thính giác. Những người có trình độ cao về âm nhạc thường rất nhạy với âm thanh, nhịp điệu, và âm vực. Họ thường có khả năng rất tốt và thậm chí tuyệt đối về ca hát, chơi nhạc cụ và sáng tác nhạc. Khi có một thành phần trí tuệ âm nhạc này, những người mạnh nhất có thể học tốt nhất thông qua bài giảng. Ngoài ra, họ thường sử dụng bài hát hoặc giai điệu để học hỏi và ghi nhớ thông tin, và có thể thực hiện tốt nhất những màn biểu diễn âm thuyết của Gardner đã chỉ ra rằng mỗi người trong chúng ta đều tồn tại một vài kiểu thông minh trên, tuy nhiên, sẽ có kiểu thông minh trội hơn trong mỗi người. Bên cạnh đó, Gardner đã chỉ ra rằng trong trường học thông thường chỉ đánh giá một học sinh thông qua 2 loại trí thông minh là trí thông minh về ngôn ngữ và trí thông minh về logic/toán học, và điều này là không chính xác. Trường học đã bỏ rơi các em có thiên hướng học tập thông qua âm nhạc, vận động, thị giác, giao tiếp…đồng thời lèo lái tất cả mọi học sinh đi theo cùng một con đường và cùng chịu chung một sự đánh giá và phán xét. Nhiều học sinh đã có thể học tập tốt hơn nếu chúng được tiếp thu kiến thức bằng chính thế mạnh của chúng.
16/10/2017 Khi còn ngồi ở ghế nhà trường, mọi người sẽ khen một ai đó thông minh khi họ giỏi các môn cần tư duy tốt như toán học hay khả năng ngôn ngữ tốt như văn học, ngoại ngữ hoặc khả năng phản ứng nhanh nhạy. Tiến sĩ Howard Gardner của đại học Harvard đã nghiên cứu về đề tài “sự thông minh” trong nhiều năm, và đưa ra lý thuyết được nhiều người chấp nhận. Có tất cả 9 loại trí thông minh được mô tả trong Thuyết Đa Trí Tuệ của do Gardene thực hiện vào năm 1983. Thuyết Đa Trí Tuệ/ Seami 1. Trí thông minh Ngôn ngữ – Năng lực sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt – Hiểu được trật tự, ý nghĩa của từ và áp dụng các kỹ năng ngôn ngữ thành thạo. – Đây là dạng trí tuệ có ở nhiều người nhất 2. Trí thông minh Nội tâm – Khả năng tự nhận thức bản thân – Dễ dàng nhìn rõ cảm xúc của bản thân, phân biệt được nhiều loại trạng thái tình cảm 3. Trí thông minh Không gian – Khả năng hình dung ý tưởng trong không gian 3 chiều – Nhạy cảm sắc bén với những chi tiết cụ thể trực quan và có thể hình dung được một cách sống động. 4. Trí thông minh Tự nhiên – Khám phá thiên nhiên, tìm hiểu về các sinh vật. – Có giác quan nhạy bén như thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác. – Có xu hướng hướng ngoại và yêu thích thiên nhiên 5. Trí thông minh Logic – Toán học – Xem xét các vấn đề rất khoa học, sáng tạo – Khả năng suy luận logic, tính toán với các con số, biểu đồ, thống kê. – Khả năng suy luận tốt, hiểu rõ nguyên nhân của các vấn đề cũng như luôn tìm ra các giải pháp cho vấn đề. 6. Trí thông minh Hiện sinh – Người có khả năng học tập thông qua các câu hỏi như “tại sao chúng ta tồn tại ở đây?”, “tại sao chúng ta phải chết?”. 7. Trí thông minh Hướng ngoại – Có năng lực hiểu và làm việc được với những người khác. – Có xu hướng hướng ngoại và có khả năng phối hợp cao. 8. Trí thông minh Vận động – Khả năng của trí não điều khiển các hoạt động thể chất. – Sử dụng linh hoạt các bộ phận cơ thể và phối hợp nhuần nhuyễn chúng để đạt được hiệu quả cao nhất. 9. Trí thông minh Âm nhạc – Nhận biết và sáng tác âm điệu, cao độ và nhịp điệu. – Khả năng cảm âm tốt, nhạy cảm với âm thanh. – Đây là một loại hình trí thông minh chỉ được khuyến khích khám phá và đào tạo gần đây. Các trường học bắt đầu chú trọng đến việc dạy về âm nhạc cho học sinh. ——————————————– Howard Gardener là Giáo sư Nhận thức và Giáo dục tại trường Harvard Graduate. Ông cũng giữ vị trí như là phụ giáo Tâm lý học tại Đại học Harvard và Giám đốc cấp cao của dự án Harvard Zero. Gardner là người nhận giải MacArthur Fellowship năm 1981 và năm 1990 ông trở thành người Mỹ đầu tiên nhận được giải thưởng của Đại học Louisville Grawemeyer trong giáo dục. Năm 2000, ông nhận được học bổng từ John S. Guggenheim Memorial Foundation. Bốn năm sau, ông được bổ nhiệm làm giáo sư danh dự tại Đại học East China Normal ở Thượng Hải. Trong những năm 2005 và 2008, ông đã được lựa chọn bởi chính sách đối ngoại và tạp chí Prospect là một trong 100 trí thức công chúng có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Năm 2011, anh đã giành được giải thưởng Prince of Asturias trong khoa học xã hội cho sự phát triển của lý thuyết đa trí thông minh. Ông đã nhận được bằng danh dự 20-9 trường cao đẳng và các trường đại học, bao gồm cả các tổ chức ở Bulgaria, Canada, Chile, Hy Lạp, Ireland, Israel, Italy, và Hàn Quốc. CategoriesÂm Nhạc Kiến Thức Hữu Ích
Thuyết đa trí tuệ là một lý thuyết về trí thông minh của con người được nhìn nhận bằng nhiều cách, mang tính đa dạng, được nghiên cứu và công bố bởi tiến sĩ Howard Gardner.[1] Theo Gardner, trí thông minh intelligence được ông quan niệm như sau “là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn hóa” và trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. Năm 1983, ông đã xuất bản một cuốn sách có nhan đề Frames of Mind tạm dịch Cơ cấu của trí tuệ, trong đó ông công bố các nghiên cứu và lý thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh Theory of Multiple Intelligences.[2] Những bằng chứng làm cơ sở[sửa sửa mã nguồn] Thuyết trí thông minh đa dạng không phải là khuôn mẫu đầu tiên cho rằng có nhiều cách khác nhau để trở thành người khôn ngoan, rất nhiều những dạng thông minh khác đã được gợi ý, Chúng bao gồm những dạng sau khiếu hài hước, óc sáng tạo, tài nấu ăn, sự duy linh, đạo đức, bản năng giới tính, trực giác, khả năng khứu giác, khả năng ngoại cảm, khả năng ghi nhớ, trí khôn ngoan, khả năng kỹ thuật, cảm nhận chung và trí thông minh đường phố, đã có rất nhiều loại luận thuyết về trí thông minh được đưa ra, theo đó có hơn 150 dạng thông minh khác nhau, nhưng chỉ có 7 dạng thông minh đủ bằng chứng cơ sở đó là Thứ nhất Mỗi trí thông minh đều có khả năng được biểu tượng hóa[sửa sửa mã nguồn] Thứ hai Mỗi trí thông minh đều có một lịch sử phát triển của riêng nó[sửa sửa mã nguồn] Thứ ba Mỗi trí thông minh đều sẽ bị biến mất khi não bị tổn thương ở vùng đặc trưng[sửa sửa mã nguồn] Thứ tư Mỗi trí thông minh đều có nền tảng và giá trị văn hóa riêng của nó[sửa sửa mã nguồn] Danh sách các trí thông minh[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh ngôn ngữ[sửa sửa mã nguồn] Đây là trí thông minh của các phóng viên, nhà văn, người kể chuyện, các nhà thơ và luật sư, người có khả năng về ngôn ngữ có thể tranh biện, thuyết phục, làm trò, hay hướng dẫn hiệu quả thông qua sử dụng lời nói, Trí thông minh logic toán học[sửa sửa mã nguồn] Là loại hình thông minh đối với những con số và sự logic, đây là trí thông minh của các nhà khoa học, kế toán viên và những người lập trình máy tính, nét tiêu biểu về trí thông minh logic toán học gồm có khả năng xác định nguyên nhân, chuỗi các sự kiện, tìm ra quy tắc dựa trên các khái niệm. Trí thông minh hình ảnh không gian[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh không gian liên quan đến việc suy nghĩ bằng hình ảnh, biểu tượng và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo các góc độ khác nhau của thế giới không gian trực quan, đó là mảnh đất sáng tạo của các kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia, nghệ sỹ, các phi công và các kỹ sư cơ khi máy móc, những người đã thiết kế ra Kim tự tháp Ai Cập có rất nhiều trí thông minh này. Trí thông minh âm nhạc[sửa sửa mã nguồn] Đặc điểm cơ bản của trí thông minh âm nhạc là khả năng cảm nhận, thưởng thức và tạo ra các tiết tấu nhịp điệu, đó là trí thông minh của các nhạc công hay những ca sĩ, ngoài ra trí thông minh âm nhạc còn có trong tiềm thức của bất cứ cá nhân nào, miễn là người đó có khả năng nghe tốt và hát theo giai điệu. Trí thông minh vận động thể chất[sửa sửa mã nguồn] Khả năng vận động thân thể là loại hình thông minh của chính bản thân cơ thể, nó bao gồm tài năng trong việc điều khiển các hoạt động về thân thể, khiến các hoạt động của thân thể và các thao tác cầm nắm một cách khéo léo, các vận động viên thể thao, những người làm nghề thủ công, thợ cơ khí và các bác sĩ phẫu thuật là những người sở hữu khả năng này, Trí thông minh tương tác cá nhân[sửa sửa mã nguồn] Đây là năng lực hiểu và làm được với những người khác, khả năng nhìn thấu suốt bên trong người khác, từ đó nhìn ra viễn cảnh bên ngoài bằng chính con mắt của họ, Trí thông minh nội tâm[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh nội tâm là năng lực tự nhận thức về bản thân, một người có tư duy này có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn rõ được những cảm xúc của bản thân mình, người có trí thông minh này họ thường hay xem xét bản thân và thích trầm tư suy nghĩ, được ở trạng thái tĩnh lặng hay các trạng thái tìm hiểu tinh thần một cách sâu sắc khác, họ thích làm việc một mình hơn làm việc cùng những người khác, họ là người có tính độc lập và tính tự giác tốt. Những dạng thông minh được bổ sung[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh thiên nhiên[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh thiên nhiên là khả năng tinh thông trong việc nhận dạng và phân loại vô số chủng loại động thực vật trong môi trường. Đối với mỗi dạng trong bảy loại hình thông minh đầu tiên, có rất nhiều cách để thể hiện chúng ra thế giới bên ngoài. Có lẽ rõ rệt nhất, những người có cảm nhận về thiên nhiên bộc lộ trí thông minh của mình. Đó là sở trường của những người làm vườn, trồng cây cảnh, sáng tạo khung cảnh thiên nhiên, hay nói cách khác là thể hiện sự quan tâm tự nhiên của mình đối với thực vật Trí thông minh hiện sinh[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh hiện sinh có rất ít mối quan hệ với bất kỳ hệ tư tưởng nào. Hơn thế, định nghĩa trí thông minh hiện sinh là trí thông minh liên quan tới các vấn đề cơ bản của cuộc sống. Những câu hỏi như “Cuộc sống là gì?” “Ý nghĩa của nó là gì?” “Vì sao lại có quỷ dữ?” “Loài người sẽ tiến tới đâu?” và “Chúa có tồn tại hay không?” là những điểm khởi đầu mạnh mẽ cho một cuộc khai phá tầm nhận thức sâu sắc hơn. định nghĩa khả năng của trí thông minh hiện sinh gồm hai phần – Xác định bản thân tới những tầm xa nhất của vũ trụ – nơi tận cùng, vô tận. – Xác định bản thân với những tính năng hiện hữu nhất của điều kiện con người – tầm quan trọng của cuộc sống, ý nghĩa của cái chết, số mệnh cuối cùng của thế giới vật chất, tinh thần, những trải nghiệm sâu sắc như là tình yêu của con người hoặc niềm đam mê nghệ thuật. Một số người có nhiều trí thông minh hiện sinh do họ đã tìm thấy một “chân lý cuối cùng”, trong khi những người khác kém hơn vì không tìm ra. Những người có trí thông minh hiện sinh có thể là nhà thần học, mục sư, giáo sỹ Do Thái, pháp sư, linh mục, thầy dạy Yoga, nhà sư và những thầy trưởng tế Hồi giáo. Mỗi người trong số họ có thể có những nhận thức khác nhau về bản chất của chân lý tuyệt đối. Nhưng cũng có những người theo thuyết bất khả tri, những triết gia theo phái hoài nghi, phái vô thần, phái châm chích, những người báng bổ hoặc những nhà dị giáo – những người thể hiện một trình độ cao hơn của trí thông minh hiện sinh bởi họ luôn cố xoay xở với những câu hỏi ở mức độ căng thẳng và phức tạp Tham khảo[sửa sửa mã nguồn] ^ Slavin, Robert 2009 Educational Psychology, p. 117 ISBN 0-205-59200-7 ^ McKenzie, W. 2005. Multiple intelligences and instructional technology. ISTE International Society for Technology Education. ISBN 156484188X Liên kết ngoài[sửa sửa mã nguồn]
thuyết đa trí tuệ